Ký sinh trùng là gì? Các công bố khoa học về Ký sinh trùng

Ký sinh trùng là các loài sinh vật sống ký sinh trên hoặc bên trong các sinh vật khác để trục lợi từ cơ thể chủ. Chúng tiêu thụ chất dinh dưỡng, sức khỏe và tài...

Ký sinh trùng là các loài sinh vật sống ký sinh trên hoặc bên trong các sinh vật khác để trục lợi từ cơ thể chủ. Chúng tiêu thụ chất dinh dưỡng, sức khỏe và tài nguyên của sinh vật chủ mà chúng ký sinh, gây ra những tác động tiêu cực và hại cho chủ nhân. Các loài ký sinh trùng bao gồm vi khuẩn, virus, nấm và các loài động vật như giun, ve, bọ chét, bọ cánh cứng, và sán dây.
Ký sinh trùng là các loài sinh vật tồn tại và lấy dưỡng từ một sinh vật chủ khác để sống sót và phát triển. Chúng không có khả năng tự tạo ra năng lượng và tài nguyên cần thiết để tồn tại mà phụ thuộc hoàn toàn vào cơ thể chủ của mình.

Các loại ký sinh trùng có thể chọn để sống trên hoặc bên trong sinh vật chủ.

- Ký sinh trùng ngoài: Một số loài ký sinh trùng sống bên ngoài cơ thể chủ và cắn, nhấp hoặc dính vào da, lông, bộ lông hoặc móng của chúng để lấy dưỡng. Ví dụ như ve, bọ chét, bọ cánh cứng và các loại kiến béo (tên tiếng Anh là ticks và fleas).

- Ký sinh trùng trong: Các loài ký sinh trùng trong thường sống bên trong cơ thể chủ và thu nhận nguồn dinh dưỡng từ cơ thể hoặc các mô và cơ quan bên trong. Chúng có thể lắng đọng trong ruột, gan, phổi, da, huyết thanh và các bộ phận khác của chúng. Ví dụ bao gồm các loại giun, sán dây, nhiều loại ký sinh trùng tế bào như plasmodium gây bệnh sốt rét, và nấm Candida gây nhiễm khuẩn âm đạo.

Ký sinh trùng gây hại cho cơ thể chủ bằng cách tấn công và phá huỷ các cấu trúc và chức năng của nó. Chúng có thể gây ra các triệu chứng và bệnh lý như mệt mỏi, giảm cảm giác thèm ăn, tiêu chảy, suy nhược, nhiễm khuẩn, viêm nhiễm và nguy cơ suy kiệt.

Để ngăn chặn và điều trị các loại ký sinh trùng, cần tuân thủ các biện pháp vệ sinh cá nhân và môi trường sạch sẽ, chăm sóc sức khỏe và thúc đẩy hệ miễn dịch. Sử dụng các loại thuốc chống ký sinh trùng cũng là phương pháp điều trị phổ biến.
Dưới đây là một số thông tin chi tiết hơn về các loại ký sinh trùng:

1. Vi khuẩn ký sinh trùng: Vi khuẩn là các loại tế bào nhỏ không có hệ thống bào tử, chúng có khả năng tự nhân đôi bên trong cơ thể chủ. Ví dụ, vi khuẩn ký sinh trùng gây bệnh rét (Plasmodium) là nguyên nhân chính gây sốt rét ở con người.

2. Ký sinh trùng đơn bào: Đây là các loại ký sinh trùng đơn tế bào, như amoeba và giardia. Chúng thường sống trong môi trường nước và thường xuyên gặp trong nước uống hoặc thực phẩm ô nhiễm.

3. Ký sinh trùng sán dây: Sán dây là những loại ký sinh trùng đa tế bào có thể sống trong ruột hoặc trong các cơ quan khác của cơ thể. Chúng gắn kết vào thành ruột hoặc giàn trái, hấp thụ chất dinh dưỡng từ chủ nhân. Một số loài sán dây phổ biến gây bệnh như sán dây heo và sán dây nhật.

4. Ký sinh trùng tạo giun: Đây là những loại ký sinh trùng có hình dạng giun như lớp giun và giun tròn. Chúng sống trong không gian ruột và thường gây ra triệu chứng như đau bụng, buồn nôn và tiêu chảy.

5. Ký sinh trùng chân bướm: Đây là những loại ký sinh trùng có hình dạng giống chân bướm, như giun móc và bánh tròng. Chúng tồn tại trong các mô và cơ quan của cơ thể chủ, như da, phổi và gan. Chúng thường gây ra những bệnh và triệu chứng nghiêm trọng như viêm gan, viêm phổi và sưng to đường tiểu.

6. Vi rút ký sinh trùng: Vi rút là loại ký sinh trùng đơn tế bào nhỏ nhất, chúng chỉ có thể tồn tại bằng cách xâm nhập vào các tế bào của cơ thể chủ. Chúng gây ra nhiều loại bệnh nguy hiểm như cúm, viêm gan, HIV/AIDS và bệnh Ebola.

Mỗi loại ký sinh trùng có cách hoạt động, cơ chế tấn công và ảnh hưởng đặc biệt. Điều quan trọng là cần có hiểu biết về các loại ký sinh trùng và cách phòng ngừa và điều trị hiệu quả để bảo vệ sức khỏe của chúng ta.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ký sinh trùng":

Các protein mã hóa nhân được hướng đến lạp thể trongToxoplasma gondiiPlasmodium falciparum Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 95 Số 21 - Trang 12352-12357 - 1998

Gần đây, một lạp thể không có khả năng quang hợp đã được nhận diện trong các ký sinh trùng nguyên sinh vật của ngành Apicomplexa. Lạp thể ở apicomplexa, hay gọi là "apicoplast," là không thể thiếu nhưng toàn bộ trình tự của cảPlasmodium falciparumToxoplasma gondiikhông tiết lộ bất kỳ manh mối nào về chức năng chuyển hóa quan trọng mà bào quan này có thể thực hiện trong ký sinh trùng. Để điều tra các chức năng có thể của apicoplast, chúng tôi tìm cách nhận diện các gen được mã hóa trong nhân có sản phẩm được hướng đến apicoplast trongPlasmodiumToxoplasma. Chúng tôi mô tả ở đây các gen nhân mã hóa protein ribosome S9 và L28 và các enzyme tổng hợp axit béo: protein mang acyl (ACP), β-ketoacyl-ACP synthase III (FabH), và β-hydroxyacyl-ACP dehydratase (FabZ). Các gen này cho thấy sự tương đồng cao với các tương đồng trong lạp thể, và việc định vị miễn dịch của S9 và ACP xác nhận rằng các protein tích tụ trong lạp thể. Tất cả các protein có đối tượng là apicoplast đều có trình tự tiền thân ở đầu N phù hợp với hướng đến lạp thể, và trình tự trước của ACP được cho là đủ để hướng một protein xanh phát sáng tái tổ hợp đến apicoplast trong các transgenicT. gondii. Việc định vị của ACP, và rất có thể là FabH và FabZ, trong apicoplast ám chỉ rằng tổng hợp axit béo là một chức năng có thể của apicoplast. Hơn nữa, sự ức chế tăng trưởng củaP. falciparumbởi thiolactomycin, một chất ức chế FabH, chỉ ra vai trò quan trọng của tổng hợp axit béo trong apicoplast. Bởi vì các gen tổng hợp axit béo được nhận diện ở đây thuộc về loại lạp thể/vi khuẩn và khác biệt với con đường tương đương ở động vật, tổng hợp axit béo có tiềm năng là mục tiêu tuyệt vời cho liệu pháp trị liệu hướng đến bệnh sốt rét, toxoplasmosis, và các bệnh do Apicomplexa gây ra.

#Apicoplast #Lạp thể #Axit béo #Ký sinh trùng #Các gen mã hóa nhân #Apicomplexa #Chuyển hóa #Tổng hợp #Mục tiêu trị liệu
Hiệu ứng chọn lọc của 2′,6′-dihydroxy-4′-methoxychalcone tách chiết từPiper aduncumđối vớiLeishmania amazonensis Dịch bởi AI
Antimicrobial Agents and Chemotherapy - Tập 43 Số 5 - Trang 1234-1241 - 1999
TÓM TẮT

2′,6′-Dihydroxy-4′-methoxychalcone (DMC) đã được tinh chế từ chiết xuất dichloromethane của hoa câyPiper aduncum. DMC cho thấy hoạt động đáng kể in vitro chống lại promastigotes và amastigotes nội bào củaLeishmania amazonensis, với liều hiệu quả 50% lần lượt là 0,5 và 24 μg/ml. Tác dụng ức chế trên amastigotes rõ ràng là một tác động trực tiếp lên ký sinh trùng và không phải do sự kích hoạt chuyển hóa nitrogen oxide của đại thực bào, vì sự sản sinh nitric oxide của các đại thực bào không được kích thích và được kích thích bởi gamma interferon tái tổ hợp đều giảm hơn là tăng khi sử dụng DMC. Hoạt động thực bào của đại thực bào vẫn hoạt động bình thường ngay cả với nồng độ DMC cao tới 80 μg/ml, quan sát bằng kính hiển vi điện tử và khả năng hấp thụ các hạt được gắn nhãn bằng fluorescein isothiocyanate. Các nghiên cứu cấu trúc siêu vi cũng cho thấy rằng trong sự hiện diện của DMC, ty thể của promastigotes bị phình to và mất tổ chức. Dù tiêu diệt amastigotes nội bào, nhưng không có sự xáo trộn cơ quan đại thực bào nào được quan sát thấy, ngay cả ở 80 μg DMC/ml. Những quan sát này gợi ý rằng DMC có độ độc chọn lọc đối với ký sinh trùng. Cấu trúc đơn giản của nó có thể giúp DMC trở thành một hợp chất đầu mới cho việc tổng hợp các loại thuốc chống leishmania mới.

#2′ #6′-Dihydroxy-4′-methoxychalcone #Piper aduncum #Leishmania amazonensis #hoạt tính chọn lọc #đại thực bào #ký sinh trùng #thuốc chống leishmania #promastigotes #amastigotes nội bào #cấu trúc ty thể
Mô hình theo mùa trong các cộng đồng ký sinh trùng của Hoplerythrinus unitaeniatus và Hoplias malabaricus (Actinopterygii: Erythrinidae) từ Amazon Brazil Dịch bởi AI
Acta Parasitologica - - 2016
Tóm tắt

Nghiên cứu hiện tại đã điều tra ảnh hưởng của sự biến đổi theo mùa trong các cộng đồng ký sinh trùng của Hoplerythrinus unitaeniatus và Hoplias malabaricus từ một nhánh sông Amazon. Đối với H. unitaeniatus và H. malabaricus, có 11 loài ký sinh trùng tương tự, và sự phong phú ký sinh trùng lớn nhất xảy ra trong mùa mưa. Ichthyophthirius multifiliis là loài ký sinh trùng chiếm ưu thế đối với cả hai vật chủ. Ở H. unitaeniatus, sự nhiễm ký sinh bởi Whittingtonocotyle caetei, Whittingtonocotyle jeju, Urocleidoides sp. và Anacanthorus sp. cao hơn trong mùa mưa. Contracaecum sp., Procamallanus (Spirocamallanus) inopinatus, Nomimoscolex matogrossensis và Gorytocephalus spectabilis không cho thấy mẫu theo mùa. Đối với H. unitaeniatus, P. pillulare, Clinostomum marginatum và Argulus pestifer chỉ xuất hiện trong mùa khô, trong khi Trichodina sp., Dolops geayi, metacercariae chưa xác định và Posthodiplostomum sp. chỉ xuất hiện trong mùa mưa. Ở H. malabaricus, tỷ lệ Urocleidoides eremitus tương tự trong hai mùa, nhưng độ phong phú cao hơn trong mùa mưa. Tetrahymena sp., C. marginatum, Dendrorchis neivai, metacercariae chưa xác định, Posthodiplostomum sp., Genarchella genarchella, Cystidicoloides sp., G. spectabilis, D. geayi, A. pestifer và Glossiphonidae gen. sp. chỉ xảy ra trong mùa khô. Tuy nhiên, Contracaecum sp. và P. (S.) inopinatus xảy ra trong cả hai mùa, nhưng tỷ lệ của P. (S.) inopinatus cao hơn trong mùa mưa. Sự biến đổi theo mùa trong mức độ nhiễm sắc này là do hành vi và thói quen ăn uống của vật chủ và sự sẵn có của các dạng ký sinh trùng truyền nhiễm có vòng đời dị sinh. Sự dao động không theo mùa được phát hiện có thể là kết quả của sinh học ký sinh trùng, tính chất rất biến đổi của nhánh sông Amazon này và số lượng ký sinh trùng thấp.

Phát hiện sớm nhiễm Trypanosoma evansi và theo dõi mức độ kháng thể bằng ELISA sau điều trị Dịch bởi AI
Journal of Parasitic Diseases - Tập 38 Số 1 - Trang 124-127 - 2014
Trong thông tin báo cáo này, chúng tôi báo cáo một đợt bùng phát Trypanosoma evansi trong đàn ngựa với n  =  30 (ngựa và lừa), được chăn nuôi trong chuồng chống muỗi cũng như trong bãi cỏ mở được duy trì theo hệ thống quản lý bán tích cực, và việc kiểm soát hiệu quả của nó bằng thuốc trị trypanosomiasis. Sự nhiễm trùng được theo dõi bằng ELISA kháng thể trong 180  ngày sau điều trị (PT). Tổng cộng 8 trong số 14 ngựa (57.14  %) chỉ được duy trì trong bãi cỏ mở đã được phát hiện dương tính với nhiễm T. evansi qua phương pháp phát hiện ký sinh trùng. Các động vật nhiễm bệnh đã được điều trị bằng sự kết hợp của quinapyramine methyl sulfate và chloride được sử dụng tại liều lượng theo quy định vào ngày thứ 3 của việc sàng lọc. Ký sinh trùng không thể được phát hiện từ bất kỳ động vật nào đã được điều trị từ ngày 3 PT đến 6 tháng. Hơn nữa, chúng tôi cũng không quan sát thấy sự tái nhiễm, cả trong nhóm điều trị và đàn ngựa được duy trì tại trang trại. Sero-conversion đã được quan sát thấy ở tất cả tám động vật vào ngày thứ 10 của việc sàng lọc, cho thấy phản ứng miễn dịch là do nhiễm trùng gần đây vì các động vật này trở nên dương tính một cách tuần tự. Tựa kháng thể đã đạt đến đỉnh vào ngày 10–14 ở tất cả các động vật nhiễm bệnh, và bắt đầu giảm xuống vào ngày 17 của việc sàng lọc, sau đó đạt gần mức giới hạn ngắt vào 180 ngày. Vì kháng thể tồn tại lên đến 6 tháng PT và các thử nghiệm phát hiện kháng thể không thể phân biệt giữa nhiễm trùng hiện tại và trong quá khứ ở các trường hợp đã được điều trị. Việc phát hiện thử nghiệm kháng nguyên lưu thông và các kỹ thuật ký sinh trùng kết hợp có thể thực hiện để chẩn đoán và quản lý hiệu quả nhiễm T. evansi.
#nhiễm Trypanosoma evansi #kháng thể ELISA #điều trị trypanosomiasis #phát hiện ký sinh trùng
Những thay đổi phát triển ở lớp vỏ ngoài của bốn loài metacercariae microphallid trong động vật ký sinh trung gian thứ hai (động vật giáp xác) Dịch bởi AI
Journal of Helminthology - Tập 70 Số 3 - Trang 201-210 - 1996
Tóm tắt

Mô tả hình thái của lớp vỏ ngoài của bốn loài metacercariae microphallid từ giai đoạn ấu trùng cercariae xâm nhập cho đến khi trưởng thành thành metacercariae được bao bên trong vật chủ trung gian thứ hai là động vật giáp xác. Lớp vỏ ngoài của metacercariae phát triển các lá và nhú bề mặt, cùng với các túi tiết trên bề mặt, cho thấy lớp vỏ này có chức năng hấp thụ. Sự biến mất của các hạt tiết ra từ lớp vỏ ngoài đồng thời với sự xuất hiện của lớp vỏ nang đầu tiên cho thấy lớp vỏ này có vai trò trong việc hình thành vỏ nang sơ bộ. Sau đó, metacercariae tiếp tục phát triển và dường như giữ được khả năng hấp thụ của chúng. Lớp vỏ ngoài cũng tham gia vào việc vận chuyển vật chất vào khoang quanh metacercarial trước khi vật chất này trở thành một phần của các lớp vỏ trong phát triển. Có vẻ như vật chất này có nguồn gốc từ các tế bào vỏ nằm giữa các tế bào nhu mô bên dưới lớp hợp bào vỏ ngoài. Khi hoàn thành các lớp vỏ phụ, đã xảy ra sự thoái hoá dần dần của các cấu trúc liên quan đến sự hấp thụ và sự tích tụ tiến triển của các hạt dẹt dày đặc có thể được truy nguồn từ các tế bào vỏ bên dưới. Cả bốn loài microphallid (Maritrema arenaria,M. subdolum,Levinseniella brachysomaMicrophallus claviformis) đều thể hiện cùng một mô hình phát triển nhưng thời gian trải qua mỗi giai đoạn khác nhau tuỳ vào thời gian di chuyển đến các vị trí bao bọc. Mô hình phát triển của vỏ ngoài được mô tả được cho là áp dụng cho tất cả các metacercariae microphallid và có thể cho các metacercariae khác trải qua sự tăng trưởng và phát triển trong các vật chủ trung gian thứ hai của chúng.

#Microphallid #Metacercariae #Tegument #Crustacean hosts #Parenchymal cells #Absorption #Cyst formation #Developmental stages
Vị trí dinh dưỡng, tỷ lệ nguyên tố và sự chuyển hóa nitơ trong chuỗi thức ăn kỷ lục gồm ký sinh trùng nấm Dịch bởi AI
Oecologia - Tập 194 Số 4 - Trang 541-554 - 2020
Tóm tắt

Chế độ ký sinh có thể được coi là chiến lược tiêu thụ phổ biến nhất. Tuy nhiên, chỉ có một vài nghiên cứu về mạng thức ăn đánh giá cách mà các đồng vị ổn định phản ánh vị trí dinh dưỡng của các loài tiêu thụ ký sinh và kết quả rất khác nhau. Thậm chí còn ít nghiên cứu hơn đã đo lường sự chuyển hóa chất dinh dưỡng của các loài tiêu thụ ký sinh, làm cản trở việc đánh giá vai trò của chúng trong việc chuyển hóa chất dinh dưỡng thông qua các mạng thức ăn. Ở đây, chúng tôi đã sử dụng một chuỗi thức ăn bao gồm một loài tảo đơn bào làm vật chủ, một loài chytrid làm tiêu thụ ký sinh và một loài rotifer như là tiêu thụ động vật ăn thịt của chytrid, để đánh giá vị trí dinh dưỡng của cả ba thành phần chuỗi thức ăn bằng cách sử dụng chữ ký đồng vị tự nhiên 13C và 15N, và để đo lường sự chuyển hóa nitơ từ vật chủ qua chytrid đến rotifer bằng cách theo dõi 15N của một vật chủ có gán nhãn lên chuỗi thức ăn. Thêm vào đó, chúng tôi đã đo lường tỷ lệ carbon và nitơ (C:N) của tất cả các thành phần trong chuỗi thức ăn. Các kết quả về độ phong phú đồng vị tự nhiên cho thấy không có sự giàu có rõ ràng về 15N trong chytrid hoặc rotifer so với các nhà sản xuất nguyên liệu. Tuy nhiên, ước tính về sự chuyển hóa nitơ chỉ ra rằng khoảng 14% nitơ từ vật chủ được chuyển hóa mỗi ngày từ vật chủ sang chytrid trong thời gian dịch bệnh, và một phần của nitơ này cũng được chuyển hóa sang rotifer. Hơn nữa, tỷ lệ C:N giảm theo mức dinh dưỡng, cho thấy rằng chytrid cung cấp một nguồn thức ăn chất lượng cao cho rotifer. Kết luận, kết quả của chúng tôi ủng hộ “mycoloop”. Mycoloop đề xuất rằng các bệnh ký sinh chytrid cho phép chuyển hóa các chất dinh dưỡng gắn kết trong tảo khổng lồ, không thể tiêu hóa sang động vật zooplankton thông qua việc sản xuất các bào tử chuyển giao có thể ăn được, từ đó chuyển hướng chất dinh dưỡng trở lại mạng thức ăn.

Ảnh hưởng của tập luyện cường độ cao theo chu kỳ đối với việc cải thiện độ cứng động mạch ở sinh viên nữ đại học Trung Quốc có cân nặng bình thường nhưng béo phì: một thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng ban đầu Dịch bởi AI
Journal of Translational Medicine - Tập 20 Số 1 - 2022
Tóm tắt Đặt vấn đề

Tập luyện cường độ cao theo chu kỳ (HIIT) đã được báo cáo là có tác động tốt hơn đến thể chất tim mạch trong trường hợp béo phì, nhưng rất ít được biết đến về độ cứng động mạch (AS) ở sinh viên nữ đại học có cân nặng bình thường nhưng béo phì (NWO). Do đó, nghiên cứu này nhằm điều tra tác động của HIIT đối với thành phần cơ thể, nhịp tim (HR), huyết áp (BP), chuyển hóa lipid máu cũng như các tham số mới về khả năng xuất hiện AS (chỉ số tốc độ xung động động mạch [AVI], chỉ số thể tích áp lực động mạch [API]) đối với sinh viên nữ đại học có NWO.

Phương pháp

Bốn mươi sinh viên nữ đại học có NWO được phân ngẫu nhiên vào nhóm kiểm soát (n = 20) và nhóm HIIT (3 hiệp 9 phút với cường độ 90% nhịp tim tối đa [HRmax], ngắt quãng bởi thời gian nghỉ 1 phút, 5 ngày một tuần, n = 20). Các xét nghiệm được thực hiện trước và sau 4 tuần tập luyện. Phân tích ANOVA với các yếu tố lặp lại và kiểm tra tác động đơn giản đã được sử dụng để phân tích sự thay đổi của các biến phụ thuộc.

Kết quả

Sau 4 tuần HIIT, các biến cải thiện về thành phần cơ thể với mức độ ý nghĩa thống kê như giảm chỉ số khối cơ thể, phần trăm mỡ cơ thể, tổng khối lượng mỡ cơ thể (BFM), BFM của cánh tay trái, chu vi đo được của cánh tay trái và độ béo phì, đồng thời tăng tổng khối lượng cơ xương của cơ thể, hàm lượng protein, tổng lượng nước trong cơ thể, khối lượng không mỡ, khối lượng tế bào cơ thể và điểm InBody. HIIT cũng đã giảm có ý nghĩa thống kê nhịp tim và huyết áp. Đối với hồ sơ lipid, HIIT rõ rệt đã cải thiện chuyển hóa lipid máu bằng cách giảm nồng độ cholesterol toàn phần (TC), triglyceride, lipoprotein tỷ trọng thấp và TC/HDL, đồng thời tăng nồng độ lipoprotein tỷ trọng cao (HDL). Ngoài ra, AVI và API đã giảm rõ rệt sau can thiệp HIIT.

Kết luận

HIIT mang lại những lợi ích đáng kể và có ý nghĩa cho thành phần cơ thể, nhịp tim, huyết áp và chuyển hóa lipid máu, và có thể giảm AS ở sinh viên nữ đại học có NWO. Điều này cho thấy HIIT có thể giảm hiệu quả nguy cơ xơ cứng động mạch và bảo vệ chức năng tim mạch cho sinh viên nữ đại học có NWO.

Đăng ký thử nghiệm ChiCTR2100050711. Đăng ký ngày 3 tháng 9 năm 2021. Đã đăng ký hồi cứu.

Đánh giá sai lệch sự kháng thuốc trong thử nghiệm thực địa các ký sinh trùng sốt rét: các phương pháp đơn giản để ước lượng giá trị EC50 cao sử dụng phương pháp Bayesian. Dịch bởi AI
Malaria Journal - Tập 6 Số 1 - 2007
Tóm tắt

Các phương pháp truyền thống trong việc đánh giá mối quan hệ giữa nồng độ thuốc kháng sốt rét in-vitro trong thử nghiệm thực địa với các mẫu ký sinh trùng phân lập tươi đều đánh giá riêng từng mẫu ký sinh trùng. Điều này dẫn đến việc ước tính hệ thống các giá trị EC50 cho các mẫu kháng thuốc mạnh nhất bị cao hơn, từ đó ước tính quá mức mức độ kháng thuốc. Trong các nghiên cứu về độ nhạy với thuốc kháng sốt rét được thực hiện tại biên giới tây bắc Thái Lan, mức độ ước tính cao quá về EC50 cho mẫu kháng thuốc mạnh nhất dao động từ 15% với artesunate đến 43% với mefloquine. Nếu không thể lưu trữ các mẫu để thử nghiệm lại, có thể có được các ước tính chính xác hơn về mức độ kháng bằng cách sử dụng phương pháp Bayesian để phân tích dữ liệu, như được mô tả ở đây.

#kháng thuốc sốt rét #phương pháp Bayesian #EC50 #thử nghiệm thực địa #ký sinh trùng sốt rét
KẾT QUẢ SẢN KHOA Ở THAI PHỤ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THAI KỲ ĐẺ ĐỦ THÁNG TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 502 Số 2 - 2021
Mục tiêu: nhận xét kết quả sản khoa ở thai phụ đái tháo đường thai kỳ đẻ đủ tháng tại Bệnh viện Phụ sản Trung ương năm 2019-2020.Kết quả: tỷ lệ bệnh nhân ĐTĐTK mổ đẻ (78,29%) cao hơn so với tỷ lệ đẻ thường. Các nguyên nhân ĐTĐTK đẻ mổ thường gặp là do nguyên nhân có tiền sử mổ cũ (32,03%), nguyên nhân do thai to chiếm 14,84%.Cân nặng sơ sinh trung bình của nhóm thai phụ ĐTĐTK đẻ đủ tháng là 3433 ± 442g. Có 12 trẻ có cân nặng từ 4000g trở lên, chiếm 7,05%. Phần lớn trẻ sinh ra có mẹ bị ĐTĐTK không có biến chứng sau đẻ, chiếm tỷ lệ 81,64%. Có 4 trẻ bị hạ glucose máu (2,35%), 22 trẻ có bị vàng da sau sinh (12,94%). Tỷ lệ trẻ sơ sinh có chỉ số Apgar sau 1 phút và sau 5 phút <7 điểm chiếm tỷ lệ thấp (lần lượt là 2,94% và 1,18%).Kết luận: thai phụ ĐTĐTK có tỷ lệ mổ đẻ cao. Biến chứng ở trẻ sinh ra có mẹ bị ĐTĐTK thường gặp là vàng da sau sinh, biến chứng ít gặp hơn là hạ glucose máu và suy hô hấp sau sinh.
#kết quả sản khoa #đái tháo đường thai kỳ #hạ đường máu #suy hô hấp sau sinh #vành da sau sinh
Tổng số: 204   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10